Viêm phế quản tái phát nhiều lần là 1 phần của nhiễm trùng đường hô hấp trên(URI) gây ra bởi rhinovirus, parainfluenza, virus cúm A hoặc B, virus hợp bào hô hấp, coronavirus hoặc metapneumovirus ở người. Vi khuẩn như Mycoplasma pneumoniae, Bordetella pertussis, và Chlamydia pneumoniae là căn nguyên của ít hơn 5% những trường hợp; chúng thường xuất hiện trong đợt dịch. Viêm phế quản cấp tính tính là 1 phần của phổ bệnh xảy ra với nhiễm SARS-CoV-2 và xét nghiệm vi rút này là thích hợp trong đại dịch hiện nay. Sốt, đau cơ, đau họng, những triệu chứng tiêu hóa, mất khứu giác và mất vị giác thường gặp với vi rút SARS-CoV-2 hơn những loại vi rút khác.
Tình trạng viêm cấp tính của cây khí quản ở những bệnh nhân có bệnh nền mạn tính ở phế quản (ví dụ: hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính [COPD], giãn phế quản, xơ nang) được coi là đợt kịch phát cấp của tình trạng bệnh lý đó hơn là bệnh viêm phế quản cấp tính. Ở những bệnh nhân này, nguyên nhân, Chữa trị và hậu quả khác với bệnh Viêm phế quản cấp tính.
Những triệu chứng thường gặp của viêm phế quản bao gồm:
- Ho, ho có đờm.
- Ho dai dẳng kéo dài.
- Thở khò khè.
- Khó thở, tức ngực.
- Sốt, mệt mỏi.
Chẩn đoán Viêm phế quản cấp tính tính
Đánh giá lâm sàng
Đôi khi chụp X-quang ngực để loại trừ những bệnh lý khác
Chẩn đoán dựa trên biểu hiện lâm sàng. Xét nghiệm vi sinh thường không cần thiết. Tuy nhiên, những bệnh nhân có những dấu hiệu hoặc triệu chứng của COVID-19 trong đại dịch hiện nay cần phải được xét nghiệm để tìm SARS-CoV-2. Xét nghiệm chẩn đoán cúm và ho gà cũng cần phải được xem xét nếu có nhiều nghi ngờ cao trên lâm sàng dựa trên mức độ phơi nhiễm và/hoặc những đặc điểm lâm sàng. Những bệnh nhân phàn nàn về khó thở cần phải được đo độ bão hòa oxy để loại trừ tình trạng giảm oxy huyết. Chụp X-quang ngực được dùng nếu có những dấu hiệu bệnh nặng hoặc viêm phổi (ví dụ: xuất hiện bệnh, thay đổi ý thức, sốt cao, thở nhanh, thiếu máu cục bộ, ran nổ, dấu hiệu đông đặc hoặc tràn dịch màng phổi). Bệnh nhân cao tuổi đôi khi là ngoại lệ, vì họ có thể bị viêm phổi mà không có sốt hay triệu chứng khi nghe phổi, thay vào đó thay đổi tình trạng ý thức và thở nhanh.
Nhuộm gram đờm và nuôi cấy thường không có vai trò. Những bệnh phẩm mũi họng có thể được kiểm tra về cúm và ho gà nếu những bệnh này được nghi ngờ trên lâm sàng (ví dụ với ho gà, ho dai dẳng và ho kịch phát sau 10 đến 14 ngày bị bệnh, chỉ thỉnh thoảng có những biểu hiện ho đặc trưng và nôn ọe, tiếp xúc với bệnh nhân mắc bệnh trước đó). Xét nghiệm virus thường không được khuyến cáo vì kết quả không ảnh hưởng đến việc Chữa trị.
Ho có thể giải quyết được trong vòng 2 tuần ở 75% bệnh nhân. Bệnh nhân ho kéo dài nên được chụp X-quang ngực. Quyết định đánh giá những nguyên nhân không nhiễm trùng, bao gồm hen, chảy nước mũi sau và bệnh trào ngược dạ dày thực quản, thường có thể được thực hiện trên cơ sở những dấu hiệu lâm sàng. Để phân biệt với bệnh hen thể ho có thể đòi hỏi phải kiểm tra chức năng hô hấp.
Chữa trị Viêm phế quản cấp tính tính
Giảm triệu chứng (ví dụ acetaminophen, bù dịch, có thể là thuốc giảm ho).
Thuốc cường beta đường hít cho những bệnh nhân có triệu chứng thở khò khè.
Viêm phế quản cấp tính ở những bệnh nhân khỏe mạnh khác là nguyên nhân chính gây lạm dụng kháng sinh. Gần như tất cả những bệnh nhân chỉ cần Chữa trị triệu chứng, chẳng hạn như acetaminophen và bù dịch. Bằng chứng hỗ trợ về tính hiệu quả của việc sử dụng thường quy những phương pháp Chữa trị triệu chứng khác, như thuốc giảm ho, loãng đờm và thuốc giãn phế quản, là yếu. Thuốc giảm ho chỉ nên cân nhắc nếu ho gây khó chịu hoặc ảnh hưởng tới giấc ngủ. Bệnh nhân thở khò khè có đáp ứng với thuốc cường beta2 dạng hít (ví dụ, albuterol) a few trong 1 vài ngày. Việc sử dụng rộng rãi thuốc cường beta2 không được khuyến cáo bởi vì những tác động bất lợi như gây run, căng thẳng là phổ biến.
Tuy vậy 1 số nghiên cứu đã chỉ ra lợi ích khiêm tốn về triệu chứng khi sử dụng kháng sinh trong Viêm phế quản cấp tính tính, tỷ lệ gây bệnh do vi khuẩn thấp, tính chất tự khỏi của Viêm phế quản cấp tính tính và nguy cơ bị những tác dụng bất lợi và kháng kháng sinh đã chứng tỏ chống lại việc sử dụng kháng sinh rộng rãi. Thuốc kháng sinh đường uống thường không được sử dụng ngoại trừ ở bệnh nhân bị ho gà hoặc trong những trường hợp bùng phát dịch bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn (mycoplasma, chlamydia). Thuốc macrolide như azithromycin 500 mg uống 1 lần, sau đó 250 mg uống 1 lần/ngày trong 4 ngày hoặc clarithromycin 500 mg uống 2 lần/ngày trong 7 ngày là lựa chọn ưu tiên.
Phòng ngừa bệnh Viêm phế quản
- Đối với người lớn:
- Không hút thuốc lá.
- Hạn chế tiếp xúc với khói bụi, khí độc và những nguồn không khí ô nhiễm.
- Xây dựng môi trường sống không bụi bẩn, không khói thuốc lá.
- Đeo khẩu trang khi đi ra ngoài.
- Chữa trị kịp thời, dứt điểm khi trẻ bị viêm mũi họng, viêm amidan, cảm lạnh … để tránh biến chứng.
- Làm sạch không khí trong nhà: sử dụng điều hoà không khí, máy làm ẩm.
- Đối với trẻ em:
- Giữ ấm cho trẻ, tránh để trẻ bị nhiễm lạnh.
Xem thêm: Viêm phế quản dị ứng